Scholar Hub/Chủ đề/#conebeam ct/
Cone beam CT là một phương pháp chụp cắt lớp sử dụng công nghệ chụp tia X theo hình nón để tạo ra các hình ảnh 3D của cơ thể hoặc các bộ phận cụ thể như hàm, ră...
Cone beam CT là một phương pháp chụp cắt lớp sử dụng công nghệ chụp tia X theo hình nón để tạo ra các hình ảnh 3D của cơ thể hoặc các bộ phận cụ thể như hàm, răng, tai, mũi, xương quai xanh, xương quai hàm và xương quai dưới. Phương pháp này thường được sử dụng trong lĩnh vực nha khoa, chẩn đoán, và lâm sàng y tế.
Cone beam CT, còn được gọi là CBCT, là một công nghệ chụp cắt lớp tiên tiến trong lĩnh vực y học hình ảnh. Nó sử dụng một hệ thống tia X hình nón để tạo ra các hình ảnh 3D của vùng quan tâm nhất định của cơ thể.
Cone beam CT khác với CT thông thường bởi vì nó sử dụng một dàn chụp tia X hình nón hơn là dàn chụp tia X hình xoáy. Điều này có nghĩa là nó chỉ đặt một vòng quay ngắn và nhỏ để thu thập thông tin hình ảnh.
Phương pháp này thường được sử dụng trong nha khoa để chụp hình ảnh chi tiết về hàm, răng và khu vực xung quanh. Nó cho phép bác sĩ nha khoa xem xét các cấu trúc bên trong miệng một cách chi tiết hơn, giúp định rõ vị trí và hình dạng của các rễ răng, mô mềm xung quanh và kết quả của các quá trình trị liệu như cấy ghép và nha khoa tiến trình.
CBCT cũng được sử dụng trong các lĩnh vực khác của y học, bao gồm đa chức năng như đánh giá tình trạng xương quai xanh để lập kế hoạch can thiệp điều trị, và nganh công nghiệp định tướng. Nó cũng có thể được sử dụng để tạo ra hình ảnh toàn cảnh và ảnh tầng lớp, cung cấp một cái nhìn tổng quan và chi tiết về vùng quan tâm nhất định.
Cone beam CT tạo ra các hình ảnh mô hình 3D có độ phân giải cao và mất ít thời gian hơn so với các phương pháp chụp CT truyền thống. Tuy nhiên, nó có hạn chế trong việc tạo ra hình ảnh của các cấu trúc mô tán và tạo ra hình ảnh với độ chính xác thấp hơn so với CT thông thường.
Tổng quát, cone beam CT là một công nghệ chức năng trong lĩnh vực hình ảnh y khoa, đặc biệt là trong nha khoa, để tạo ra các hình ảnh 3D chi tiết và đáng tin cậy của các bộ phận cụ thể của cơ thể.
Cone beam CT (CBCT) là một công nghệ hình ảnh y tế tiên tiến sử dụng tia X để tạo ra hình ảnh 3D của một vùng cụ thể của cơ thể. Nó khác với CT thông thường bằng cách sử dụng một dàn tia X hình nón hơn là hình xoắn, giúp tạo ra các hình ảnh độ chính xác và chi tiết hơn của vùng quan tâm.
CBCT được sử dụng rộng rãi trong nha khoa để chụp hình ảnh của hàm, răng và các vùng xung quanh. Nó cung cấp thông tin chi tiết về rễ răng, mô mềm xung quanh, kết cấu và môi trường xung quanh, giúp quan sát và chẩn đoán các vấn đề liên quan đến nha khoa như viêm nhiễm, mất răng, dị tật và liệu pháp nha khoa.
CBCT còn được sử dụng trong lĩnh vực chẩn đoán và can thiệp y học khác như chẩn đoán rối loạn vùng quai xanh, thay thế liên kết xương và định vị những vấn đề về cơ bản. Nó cũng có ứng dụng trong ngành công nghiệp định tướng và lĩnh vực nghiên cứu.
Phương pháp chụp CBCT nhanh chóng và dễ dàng. Bệnh nhân chỉ cần đứng yên và đặt đầu vào một máy chụp hình X. Quá trình chụp thường chỉ mất vài giây đến một vài phút, tùy thuộc vào kích thước và vị trí của vùng quan tâm.
Một ưu điểm của CBCT là xem được toàn cảnh và trực quan hơn so với hình ảnh 2D truyền thống. Nó cung cấp thông tin về cấu trúc xương, khối u, các mô mềm và cấu trúc chính khác. Điều này giúp bác sĩ đưa ra chẩn đoán chính xác hơn, lập kế hoạch điều trị hiệu quả hơn và giảm nguy cơ vô cùng đáng kể khi tiến hành can thiệp.
Tuy nhiên, CBCT cũng có nhược điểm. Nó có kích thước hình ảnh nhỏ hơn so với CT truyền thống, do đó, không phù hợp cho việc xác định những vùng mô tán nhỏ. Thêm vào đó, liều lượng tia X của CBCT cũng cao hơn so với các phương pháp chụp hình truyền thống, do đó, cần tuân thủ các biện pháp bảo vệ xạ phòng thích hợp.
Trong tổng quát, CBCT là một công nghệ hình ảnh y tế tiên tiến và có ứng dụng rộng rãi trong nha khoa và các lĩnh vực y tế khác. Nó cung cấp hình ảnh 3D chi tiết, trực quan và nhanh chóng, giúp cung cấp thông tin chẩn đoán và hỗ trợ quyết định điều trị.
Contrast-enhanced, conebeam CT-based, fractionated radiotherapy and follow-up monitoring of orthotopic mouse glioblastoma: a proof-of-concept study Radiation Oncology - Tập 15 Số 1 - 2020
Abstract
Background
Despite aggressive treatment regimens comprising surgery and radiochemotherapy, glioblastoma (GBM) remains a cancer entity with very poor prognosis. The development of novel, combined modality approaches necessitates adequate preclinical model systems and therapy regimens that closely reflect the clinical situation. So far, image-guided, fractionated radiotherapy of orthotopic GBM models represents a major limitation in this regard.
Methods
GL261 mouse GBM cells were inoculated into the right hemispheres of C57BL/6 mice. Tumor growth was monitored by contrast-enhanced conebeam CT (CBCT) scans. When reaching an average volume of approximately 7 mm3, GBM tumors were irradiated with daily fractions of 2 Gy up to a cumulative dose of 20 Gy in different beam collimation settings. For treatment planning and tumor volume follow-up, contrast-enhanced CBCT scans were performed twice per week. Daily repositioning of animals was achieved by alignment of bony structures in native CBCT scans. When showing neurological symptoms, mice were sacrificed by cardiac perfusion. Brains, livers, and kidneys were processed into histologic sections. Potential toxic effects of contrast agent administration were assessed by measurement of liver enzyme and creatinine serum levels and by histologic examination.
Results
Tumors were successfully visualized by contrast-enhanced CBCT scans with a detection limit of approximately 2 mm3, and treatment planning could be performed. For daily repositioning of the animals, alignment of bony structures in native CT scans was well feasible. Fractionated irradiation caused a significant delay in tumor growth translating into significantly prolonged survival in clear dependence of the beam collimation setting and margin size. Brain sections revealed tumors of similar appearance and volume on the day of euthanasia. Importantly, the repeated contrast agent injections were well tolerated, as liver enzyme and creatinine serum levels were only subclinically elevated, and liver and kidney sections displayed normal histomorphology.
Conclusions
Contrast-enhanced, CT-based, fractionated radiation of orthotopic mouse GBM represents a versatile preclinical technique for the development and evaluation of multimodal radiotherapeutic approaches in combination with novel therapeutic agents in order to accelerate translation into clinical testing.
CÁC KÍCH THƯỚC TỪ CÁC VÁCH XƯƠNG VÙNG CHÓP ĐẾN CÁC CẤU TRÚC GIẢI PHẪU CỦA RĂNG CỐI LỚN THỨ NHẤT HÀM DƯỚI TRÊN CONEBEAM CT Mục tiêu: Xác định các kích thước từ vách xương ngoài, trong đến vị trí cách chóp 3 mm của mỗi chân răng và bề rộng xương hàm dưới tại vị trí này ở vùng răng cối lớn thứ nhất hàm dưới ở người Việt Nam Phương pháp: Nghiên cứu được thực hiện trên 166 bệnh nhân chụp phim CBCT theo chỉ định của bác sĩ tại Trung tâm CT nha khoa Nguyễn Trãi, Thành Phố Hồ Chí Minh, trong thời gian nghiên cứu từ tháng 10/2015 đến tháng 6/2016. Phim CBCT được chụp bằng máy chụp phim Picasso Trio (Ewoo Vatech, Korea) với các điều kiện và tư thế chuẩn của bệnh nhân cho chụp phim. Hình ảnh CBCT thu thập từ trung tâm CT đạt tiêu chuẩn chọn mẫu được quan sát trên máy tính màn hình phẳng 14 inches, độ phân giải 1366 x 768 pixel với phần mềm EzImplant CD viewer. Ghi nhận vị trí răng (răng 36 và răng 46), phim cần đo được chuyển về chế độ xem gốc ban đầu (thao tác Reset all), với độ phóng đại 1,5 lần. Trong mặt phẳng ngang (Axial) di chuyển gốc trục tọa độ đến chính giữa mỗi chân răng của răng cối lớn thứ nhất hàm dưới cần đo, đường cắt đứng dọc theo hướng ngoài – trong, chia chân răng thành hai phần tương đối bằng nhau. Trong mặt phẳng đứng dọc (Sagittal) điều chỉnh đường cắt đứng dọc theo trục mỗi chân răng cần đo. Tiến hành vẽ và đo đạc trong mặt phẳng đứng ngang (Coronal) (độ phóng đại 2 lần). Xác định các kích thước tại vị trí mỗi chân răng. Kết quả: Đối với các RCL thứ nhất hàm dưới có hai chân, khoảng cách từ mặt ngoài XHD đến chóp chân gần và chân xa tại vị trí cách chóp 3 mm lần lượt là 2,31±0,99mm, 3,22±1,77 mm. Đối với các RCL thứ nhất hàm dưới có ba chân, khoảng cách từ mặt ngoài XHD đến chóp chân gần và chân xa ngoài và chân xa trong tại vị trí cách chóp 3 mm lần lượt là 2,41±1,09 mm, 2,22±0,98 mm, 8,66±1,23 mm. Kết luận: Chóp các chân răng của RCL thứ nhất hàm dưới nằm rất gần mặt ngoài xương hàm dưới, lưu ý các bác sĩ phẫu thuật nội nha cẩn trọng trong các thủ thuật điều trị phẫu thuật nội nha cho các răng này.
#khoảng cách #vách xương vùng chóp #răng cối lớn thứ nhất hàm dưới #ConeBeam CT
ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI HỆ THỐNG ỐNG TỦY RĂNG HÀM LỚN THỨ NHẤT HÀM TRÊN TRÊN PHIM CONEBEAM CT Mục tiêu: Xác định số lượng và hình thái ống tủy của răng hàm lớn thứ nhất hàm trên trên phim Conebeam ở một nhóm người khu vực Hà Nội và lân cận. Kết quả: Phim CBCT của 334 bệnh nhân đã được sử dụng. Hầu hết răng hàm lớn thứ nhất hàm trên có (99,55%); 35,78% răng có chân gần ngoài có hệ thống ống tủy phức tạp (vertucci 2-7). Sự khác nhau bên phải và trái không có ý nghĩa thống kê. Chân xa và chân trong chỉ có 1 ống tủy từ lỗ vào ống tủy đến chóp răng. Hình thái chân ngoài gần theo Vertucci I ở nữ là 71,86% cao hơn ở nam (54,97%). Các hình thái khác không có sự khác biệt giữa nam và nữ. Hình thái ống tủy chữ C chiếm 2,99%, trong đó hình thái B1 (1,04%) và C (1,2%), không có sự khác biệt giữa nam và nữ cũng như bên phải và bên trái
#ống tủy #nội nha #cone-beam #răng hàm lớn thứ nhất hàm trên
SỐ LƯỢNG ỐNG TỦY CHÂN RĂNG CỦA RĂNG CỐI LỚN THỨ NHẤT HÀM DƯỚI TRÊN CONEBEAM CT TRONG ĐIỀU TRỊ NHA KHOA Mục tiêu: Đây là nghiên cứu khảo sát trên phim ConeBeam CT nhằm xác định số ống tủy của răng cối lớn (RCL) thứ nhất hàm dưới ở người Việt Nam. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu được thực hiện trên 166 bệnh nhân chụp phim CBCT theo chỉ định của bác sĩ tại Trung tâm CT nha khoa Nguyễn Trãi, Thành Phố Hồ Chí Minh, trong thời gian nghiên cứu từ tháng 10/2015 đến tháng 6/2016. Phim CBCT được chụp bằng máy chụp phim Picasso Trio (Ewoo Vatech, Korea) với các điều kiện và tư thế chuẩn của bệnh nhân cho chụp phim. Hình ảnh CBCT thu thập từ trung tâm CT đạt tiêu chuẩn chọn mẫu được quan sát trên máy tính màn hình phẳng 14 inches, độ phân giải 1366 x 768 pixel với phần mềm EzImplant CD viewer. Ghi nhận vị trí răng (răng 36 và răng 46), khảo sát số lượng ống tủy của răng cối lớn thứ nhất hàm dưới trên hình ảnh CBCT: trong mặt phẳng ngang (Axial), di chuyển các lát cắt trên thiết diện ngang của ống tủy từ sàn tủy đến chóp. Quan sát theo thiết diện ngang ở những mức sau: miệng ống tủy, phần ba giữa chân răng, phần ba chóp chân răng. Quan sát ống tủy của từng chân răng của răng cối lớn thứ nhất hàm dưới theo ba mặt phẳng. Xác định số lượng ống tủy. Kết quả: Tỉ lệ RCL thứ nhất hàm dưới có hai ống tủy, ba ống tủy, bốn ống tủy, lần lượt là 4,5%, 66,8% và 28,9%. Sự phân bố này khác biệt không có ý nghĩa theo giới tính và theo vị trí. Kết luận: Tỉ lệ RCL thứ nhất hàm dưới trên CONEBEAM CT có ba ống tủy chiếm đa số
#Ống tủy chân răng #răng cối lớn thứ nhất hàm dưới #ConeBeam CT
HỆ THỐNG ỐNG TỦY CHÂN RĂNG CỦA RĂNG CỐI LỚN THỨ NHẤT HÀM DƯỚI TRÊN CONEBEAM CT Mục tiêu: khảo sát hệ thống ống tủy của răng cối lớn thứ nhất hàm dưới về phân loại ống tủy chân răng theo Vertucci 1984 ở người Việt Nam khảo sát trên phim ConeBeam CT. Phương pháp: Nghiên cứu được thực hiện trên 332 răng cối lớn thứ nhất hàm dưới của 166 bệnh nhân chụp phim CBCT theo chỉ định của bác sĩ tại Trung tâm CT nha khoa Nguyễn Trãi, Thành Phố Hồ Chí Minh, trong thời gian nghiên cứu từ tháng 10/2015 đến tháng 6/2016. Hình ảnh CBCT thu thập từ trung tâm CT đạt tiêu chuẩn chọn mẫu được quan sát trên máy tính màn hình phẳng 14 inches, độ phân giải 1366 x 768 pixel với phần mềm EzImplant CD viewer. Ghi nhận vị trí răng (răng 36 và răng 46), khảo sát các đặc điểm giải phẫu hệ thống ống tủy của răng cối lớn thứ nhất hàm dưới trên hình ảnh CBCT: trong mặt phẳng ngang (Axial), di chuyển các lát cắt trên thiết diện ngang của ống tủy từ sàn tủy đến chóp. Quan sát theo thiết diện ngang ở những mức sau: miệng ống tủy, phần ba giữa chân răng, phần ba chóp chân răng. Quan sát ống tủy của từng chân răng của răng cối lớn thứ nhất hàm dưới theo ba mặt phẳng. Xác định phân loại ống tủy của răng cối lớn thứ nhất hàm dưới theo Vertucci (1984). Kết quả: Biến thể ống tủy loại IV là biến thể ống tủy thường gặp nhất ở chân gần của các răng cối lớn thứ nhất hàm dưới với tỉ lệ khoảng 60,8% - 68,3%, kế đến là biến thể ống tủy loại II với tỉ lệ khoảng 24,4% - 30,6%. Ở chân xa của răng cối lớn thứ nhất hàm dưới, ống tủy loại I chiếm ưu thế với tỉ lệ 80,8% - 97,6%. Khi RCL1 hàm dưới có ba chân thì 100% chân xa trong là ống tủy loại I. Kết luận: Biến thể ống tủy loại IV thường gặp nhất ở chân gần các răng cối lớn thứ nhất hàm dưới. Biến thể ống tủy loại I thường gặp nhất ở chân xa/ chân xa ngoài của các răng cối lớn thứ nhất hàm dưới. Khi răng cối lớn thứ nhất hàm dưới có ba chân thì 100% chân xa trong có ống tủy loại I.
#Phân loại ống tủy chân răng #Vertucci 1984 #răng cối lớn thứ nhất hàm dưới #ConeBeam CT
KÍCH THƯỚC GIẢI PHẪU ĐỊNH KHU VÙNG RĂNG CỐI LỚN THỨ NHẤT HÀM DƯỚI TRÊN CONEBEAM CT Mục tiêu: xác định các khoảng cách đến ống răng dưới của các cấu trúc giải phẫu vùng răng cối lớn thứ nhất hàm dưới ở người Việt Nam khảo sát trên phim CBCT. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu được thực hiện trên 166 bệnh nhân chụp phim CBCT theo chỉ định của bác sĩ tại Trung tâm CT nha khoa Nguyễn Trãi, TPHCM, trong thời gian từ 10/2015 đến 6/2016. Phim CBCT được chụp bằng máy chụp phim Picasso Trio (Ewoo Vatech, Korea). Hình ảnh CBCT thu thập từ trung tâm CT đạt tiêu chuẩn chọn mẫu được quan sát trên máy tính màn hình phẳng 14 inches, độ phân giải 1366 x 768 pixel với phần mềm EzImplant CD viewer. Ghi nhận vị trí răng (răng 36 và răng 46), phim cần đo được chuyển về chế độ xem gốc ban đầu (thao tác Reset all), với độ phóng đại 1,5 lần. Trong mặt phẳng ngang (Axial) di chuyển gốc trục tọa độ đến chính giữa mỗi chân răng của răng cối lớn thứ nhất hàm dưới cần đo, đường cắt đứng dọc theo hướng ngoài – trong, chia chân răng thành hai phần tương đối bằng nhau. Trong mặt phẳng đứng dọc (Sagittal) điều chỉnh đường cắt đứng dọc theo trục mỗi chân răng cần đo. Tiến hành vẽ và đo đạc trong mặt phẳng đứng ngang (Coronal) (độ phóng đại 2 lần). Xác định các kích thước cần đo. Kết quả: Đối với các RCL thứ nhất hàm dưới có hai chân, khoảng cách từ chóp chân gần và chân xa đến ống răng dưới lần lượt là 6,41±2,67mm, 5,82±2,79mm. Đối với các RCL thứ nhất hàm dưới có ba chân, khoảng cách từ chóp chân gần, chân xa ngoài và chân xa trong đến ống răng dưới lần lượt là 7,02±2,16mm, 6,89±2,26mm, 8,02±2,33mm. Kết luận: Càng lớn tuổi, ống răng dưới càng nằm xa các chóp chân răng. Có sự khác biệt về khoảng cách giữa ống răng dưới so với một số mốc giải phẫu. trong đó các kích thước ở nam lớn hơn ở nữ.
#Khoảng cách #ống răng dưới #răng cối lớn thứ nhất hàm dưới #ConeBeam CT
KHẢO SÁT TỶ LỆ XUẤT HIỆN VÀ ĐẶC ĐIỂM LỖ CẰM PHỤ TRÊN PHIM CẮT LỚP VI TÍNH CHÙM TIA HÌNH NÓN (CT CONEBEAM) Mục tiêu: Nghiên cứu về tỷ lệ xuất hiện và đặc điểm lỗ cằm phụ trên phim cắt lớp vi tính chùm tia hình nón CT Conebeam. Đối tượng và phương pháp: Đối tượng nghiên cứu gồm 150 phim CT Conebeam đáp ứng được các tiêu chuẩn lựa chọn. Sử dụng thống kê toán học để phân tích số liệu thu thập được. Kết quả: Lỗ cằm phụ được ghi nhận ở 16 trên 150 (11,6%) bệnh nhân chụp phim CTCB. Đường kính trung bình của lỗ cằm phụ là 1,02 ±0,13mm. Khoảng cách giữa lỗ cằm phụ và lỗ cằm được ghi nhận trung bình là 4,85 ±1,24 mm. Vị trí thường gặp nhất của lỗ cằm phụ là phía sau so với lỗ cằm với tỷ lệ 62,5%. Kết luận: Trên phim cắt lớp vi tính chùm tia hình nón CT Conebeam, lỗ cằm phụ xuất hiện ở 11,6% bệnh nhân.
#lỗ cằm phụ #CT Conebeam
MÔ TẢ SỰ THAY ĐỔI Ở KHỚP CHÂN BƯỚM KHẨU CÁI TRÊN PHIM CONEBEAM CT Ở BỆNH NHÂN SAU KHI NONG XƯƠNG HÀM TRÊN CÓ SỰ HỖ TRỢ CỦA MINIVIS Mục tiêu của nghiên cứu là nhận xét sự thay đổi của khớp chân bướm khẩu cái trên phim chụp cắt lớp chùm tia hình nón (CBCT) sau khi nong rộng xương hàm trên bằng khí cụ nong nhanh có sự hỗ trợ của minivis (khí cụ MSE). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: phim CBCT trước và sau khi nong hàm của 36 bệnh nhân (12 nam và 24 nữ, tuổi trung bình là 20,14 tuổi ) được điều trị bằng khí cụ MSE, được thu thập, phân tích và so sánh trên phần mềm OneClinic 3D (Hàn Quốc). Các mặt phẳng tham chiếu được xác định, từ đó tính khoảng cách, góc đánh giá cho sự mở, dịch chuyển của khớp sau khi nong hàm. Kết quả: Có 37/72 khớp, tương đương 51,4% khớp có dấu hiệu tách giữa cánh giữa và cánh bên của xương bướm. Trong đó 12 bệnh nhân có sự mở khớp cả hai bên, 13 bệnh nhân chỉ mở khớp ở một bên trái hoặc phải. Độ mở rộng trung bình là 1,24mm ở bên phải và 1,15mm ở bên trái. Sự dịch chuyển của hố chân bướm, mỏm chân bướm cũng được quan sát thấy trên các lát cắt. Kết luận: Khớp chân bướm khẩu cái có thể bị tách ra dưới tác dụng của lực nong do MSE mà không cần phải phẫu thuật.
#Nong rộng xương hàm trên #CBCT #khí cụ nong xương
ĐẶC ĐIỂM BẢN NGOÀI XƯƠNG HÀM DƯỚI Ở BỆNH NHÂN CÓ KHỚP CẮN LOẠI III TRÊN PHIM CHỤP CẮT LỚP VI TÍNH CHÙM TIA HÌNH NÓN Mục tiêu: Đánh giá đặc điểm bản ngoài xương hàm dưới ở bệnh nhân có khớp cắn loại III trên phim chụp cắt lớp vi tính chùm tia hình nón (Conbeam computed tomography - CBCT). Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang được thực hiện trên 30 phim CTCB của những bệnh nhân có khớp cắn loại III tại Viện Đào tạo Răng Hàm Mặt, Trường Đại học Y Hà Nội. Trên phim CTCB, góc, chiều cao (ở vị trí cách đường nối men – cement [CEJ] 4 và 6mm) và chiều dày (tại vị trí cách CEJ 6 và 11 mm) của bản xương ngoài xương hàm dưới được đo tại chân gần và chân xa răng hàm lớn thứ nhất (RHL1) và răng hàm lớn thứ hai (RHL2) hàm dưới. Kết quả: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về góc, chiều cao và chiều dày của bản xương ngoài xương hàm dưới giữa bệnh nhân nam và nữ, giữa hàm bên phải và hàm bên trái. Các giá trị bản xương ngoài xương hàm dưới ở vị trí chân xa răng hàm lớn thứ hai hàm dưới lớn hơn đáng kể so với các vị trí khác. Chiều cao xương ở vị trí 4 mm lớn hơn ở vị trí 6mm, chiều dày xương ở vị trí 11 mm lớn hơn ở vị trí 6mm, góc bản xương ngoài tăng dần từ trước ra sau. Kết luận: Bản xương ngoài xương hàm dưới cung cấp bề mặt xương tối ưu cho việc cắm miniscrew, với các đặc tính xương tốt hơn ở chân xa của răng hàm lớn thứ hai hàm dưới, cách CEJ 4 mm.
#bản ngoài xương hàm dưới #CT Conebeam #Khớp cắn loại III.